Nói tới Việt Nam, chắc ai ai cũng biết đó là một đất nước “rừng
vàng biển bạc”. Nằm ở khu vực nhiệt đới ẩm gió mùa gần với đường xích đạo nhưng
Việt Nam lại không bi sa mạc hóa như một số nước cùng vĩ độ ở Tây Á, Bắc Phi.
Chính nhờ có sự “ban tặng” kì diệu đó của tự nhiên mà Việt Nam có được nguồn
tài nguyên thiên thiên rất phong phú và đa dạng đặc biệt là nguồn tài nguyên của
biển.
Đi từ Bắc vào Nam, nước ta có 28 tỉnh và thành phố giáp biển.
Đây là một lợi thế cho nước ta trong việc khai thác có hiệu quả các ngành kinh
tế biển. Từ bao đời nay, vùng biển, ven biển và hải đảo đã gắn bó chặt chẽ với
mọi hoạt động sản xuất và đời sống của dân tộc Việt Nam. Cũng chính vì lẽ đó mà
vùng biển và ven biển nước ta có vị trí hết sức quan trọng cả về kinh tế, chính
trị và An ninh - Quốc phòng nên từ lâu đã được Đảng và Nhà nước ta quan tâm
phát triển kinh tế.
Nhắc tới kinh tế biển đầu tiên phải kể đến ngành kinh tế đánh bắt
và nuôi trồng thủy, hải sản. Đây là nghề biển truyền thống có thế mạnh của nước
ta, với vùng biển có nguồn sinh vật đa dạng, phong phú, trữ lượng hải sản trong
vùng đặc quyền kinh tế của nước ta khoảng 3,5 - 4,1 triệu tấn, hàng năm có thể
khai thác 1,5 - 1,67 triệu tấn, đồng thời có diện tích nuôi lớn, khoảng 76 vạn
ha. Đánh bắt và nuôi trồng thủy, hải sản đã
góp phần giải quyết được vấn đề việc làm ở trong nước. Đồng thời là cơ sở
để thúc đẩy ngành công nghiệp chế biến cũng như cong nghiệp xuất khẩu thủy, hải
sản phát triển mạnh mẽ.
Với nguồn tài nguyên dầu mỏ phong phú, Việt Nam được đánh giá là
một trong những nước có trữ lượng dầu mỏ lớn trên thế giới. Việt Nam nằm trong
khu vực có tiềm năng dầu khí không nhỏ, do đó đây là nguồn tài nguyên quan trọng
đã được chú ý nghiên cứu rất sớm. Nhiều bể trầm tích có triển vọng dầu khí đã
được xác định trong đó có bể trầm tích Cửu Long và Nam Côn Sơn có trữ lượng lớn
nhất, điều kiện khai thác lại thuận lợi, trữ lượng đánh giá khoảng 3 - 4 tỷ m3
dầu quy đổi, trong đó 0,9 - 1,2 tỷ m3 dầu và 2.100 - 2.800 tỷ m3 khí, phần lớn
tập trung ở vùng nước sâu xa bờ. So với các nước Đông Nam Á, trữ lượng dầu khí
của nước ta đứng thứ 3, sau In-đô-nê-xi-a và Malaysia. Tuy nguồn phát hiện chưa
thật lớn, song đối với nước ta nó có ý nghĩa rất quan trọng, cung cấp nguồn
năng lượng và nguyên liệu dồi dào cho các ngành công nghiệp, đặc biệt trong
giai đoạn khởi động nền kinh tế công nghiệp hóa, hiện đại hóa như hiện nay.
Địa hình trải dài là một lợi thế cho nước ta phát triển ngành du
lịch biển. Dọc bờ biển và các hải đảo, nhiều nơi có tiềm năng bảo tồn thiên
nhiên, và có hơn 125 bãi biển có thể phát triển du lịch, trong đó có trên 20
bãi biển đạt quy mô và tiêu chuẩn quốc tế như Trà Cổ, Bãi Cháy, Đồ Sơn, Sầm
Sơn, Nha Trang, Vũng Tàu, Phú Quốc,... Dọc bờ biển có các di tích lịch sử văn
hóa như cố đô Huế, phố cổ Hội An, Tháp Chàm,... Các bán đảo và các đảo lớn nhỏ
liên kết nhau tạo thành một quần thể du lịch hiếm có trên thế giới như Vịnh Hạ
Long. Dọc ven biển hoặc nằm cách biển không xa còn có các trung tâm thương mại,
các thành phố du lịch như Hạ Long, Hải Phòng, Đà Nẵng, Nha Trang, Vũng Tàu,
.... Cùng với tình hình chính trị ổn định, Việt Nam được bạn bè quốc tế biết đến
và đánh giá là một nước có tiềm năng về du lịch biển rất lớn. Đây chính là điều
kiên để thu hút các khách du lịch nước ngoài mang lại nguồn thu cho đất nước vô
cùng lớn.
Biển Đông mang lại cho nước ta nguồn năng lượng dồi dào cung cấp
cho các ngành kinh tế cũng như hoạt động sinh hoạt và sản xuất của con người.
Bên cạnh dầu khí, than cũng là nguồn tài nguyên năng lượng có tiềm năng rất lớn. Than đá phân bố dọc
biển Hòn Gai - Cẩm Phả và kéo dài ra các đảo. Trữ lượng than đá ven biển Quảng
Ninh khoảng 3 tỷ tấn, cho phép khai thác hàng chục triệu tấn/năm, tạo ra ngành
công nghiệp chủ lực có tác động lớn đến kinh tế - xã hội vùng ven Biển Đông Bắc
của Tổ quốc; than nâu phân bố ở độ sâu từ 300 - 1000m thuộc đồng bằng sông Hồng
và kéo dài ra biển với trữ lượng dự đoán hàng trăm tỷ tấn, là nguồn năng lượng
dự trữ rất lớn của đất nước; than bùn phân bố rải rác dọc ven biển các tỉnh
Thanh Hóa, Quảng Bình, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Đà Nẵng, Cà Mau,... Đặc biệt
tập trung lớn ở U Minh với trữ lượng lên trên 100 triệu tấn. Sức gió, sức thủy
triều có thể tạo ra nguồn điện năng lớn lại không gây ô nhiễm môi trường. Ngày
nay, các nhà khoa học còn phát hiên ở vùng biển nước ta có băng cháy mang lại
nguồn năng lượng rất lớn và được đánh giá đứng hàng thứ 5 ở khu vực châu Á về
tiềm năng băng cháy.
Ngoài ra, biển nước ta còn mang lại nhiều nguồn khoáng sản quan
trọng. Hiện nay đã phát hiện hàng chục mỏ và điểm
quặng sắt có quy mô khác nhau ở vùng ven biển, trong đó quan trọng nhất là mỏ
Thạch Khê với trữ lượng khoảng 580 triệu tấn, chiếm 65% trữ lượng quặng sắt của
cả nước, hàm lượng quặng sắt đạt 60 - 65%, đảm bảo nguyên liệu cho cơ sở luyện
kim quy mô lớn. Sa khoáng titan phân bố rất phổ biến dọc bờ biển với trữ lượng
dự đoán khoảng 13 triệu tấn, tập trung ở Bình Ngọc, Sầm Sơn, Kỳ Anh, Cát Khánh
và Hàm Tân. Hầu hết các mỏ titan đều lộ thiên ở những khu vực kinh tế tương đối
phát triển, nguồn lao động dồi dào, giao thông thuận tiện. Cát thủy tinh cũng
là một trong những khoáng sản ven biển có tiềm năng lớn nhất với trữ lượng dự
đoán hàng trăm tỷ tấn, các mỏ cát thủy tinh lớn và quan trọng như: Vân Hải, Ba
Đồn, Nam Ô, Thủy Triều, Hòn Gốm,... Chất lượng khá tốt được sử dụng làm nguyên
liệu để sản xuất các loại thủy tinh cao cấp và vật liệu khác. Bên cạnh đó, các
nguồn tài nguyên khác như đá
vôi, đá xây dựng, đá ốp lát, cao lanh, nước khoáng,... Phân bố rộng rãi ở vùng
ven biển trên các đảo, có thể phát triển công nghiệp xi măng và vật liệu xây dựng,
và có ý nghĩa rất quan trọng trong việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế của các địa
phương ven biển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Với tiềm năng rất lớn như vậy, biển Việt Nam đã mang lại cho đất
nước nguồn lợi vô cùng to lớn. Vì vậy, khai thác kinh tế biển phải thật tương xứng
với tiềm năng của nó và phải đảm bảo được sự phát triên lâu dài.
0 comments