Việt Nam là một trong những nước có lợi thế về biển, có vị
trí địa lý thuận lợi nằm trên đường hàng hải quốc tế, có cảng biển sâu, có điều
kiện để phát triển hàng hải, hàng không, du lịch biển, đánh bắt, nuôi trồng thủy
hải sản,…
Với chiều dài bờ biển 3.260km, 1 triệu km2 vùng biển kinh tế
đặc quyền rộng gấp 3 lần diện tích đất liền, có vị trí địa chính trị hết sức
quan trọng với hơn 3.000 hòn đảo. Cả nước có 28 tỉnh thành phố trực thuộc trung
ương có biển (trong đó có 10 tỉnh và thành phố có hải đảo, quần đảo) với tổng
diện tích 208.560 km2 chiếm 41% diện tích cả nước và 41, 2 triệu dân chiếm gần
một nửa dân số Việt Nam.
Dọc bờ biển và các hải đảo, nhiều nơi có tiềm năng bảo tồn
thiên nhiên, và có hơn 125 bãi biển có thể phát triển du lịch, trong đó có trên
20 bãi biển đạt quy mô và tiêu chuẩn quốc tế như Trà Cổ, Bãi Cháy, Đố Sơn, Sầm
Sơn, Nha Trang, Vũng Tàu, Phú Quốc,... dọc bờ biển có các di tích lịch sử văn
hóa như cố đô Huế, phố cổ Hội An, Tháp Chàm,... Các bán đảo và các đảo lớn nhỏ
liên kết nhau tạo thành một quần thể du lịch hiếm có trên thế giới như Vinh Hạ
Long...
Theo kết quả thăm dò khảo sát đến nay cho thấy tiềm năng
tài nguyên biển của nước ta tuy không được coi là vào loại giàu có của thế giới,
nhưng cũng rất đáng kể và có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với phát triển đất
nước. Đó là các nguồn tài nguyên biển có ý nghĩa chiến lược sau:
Về dầu khí
Việt Nam nằm trong khu vực có tiềm năng dầu khí không nhỏ.
Nhiều bể trầm tích có triển vọng dầu khí đã được xác định trong đó có bể trầm
tích Cửu Long và Nam Côn Sơn có trữ lượng lớn nhất, điều kiện khai thác lại thuận
lợi, trữ lượng đánh giá khoảng 3-4 tỷ m3 dầu quy đổi, trong đó 0,9 - 1,2 tỷ m3
dầu và 2.100 - 2.800 tỷ m3 khí, phần lớn tập trung ở vùng nước sâu xa bờ. So với
các nước Đông Nam Á, trữ lượng dầu khí của nước ta đứng thứ 3, sau
In-đô-nê-xi-a và Ma-lai-xi-a. Tuy nguồn phát hiện chưa thật lớn, song đối với
nước ta nó có ý nghĩa rất quan trọng, đặc biệt trong giai đoạn khởi động nền
kinh tế công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Về cảng và vận tải biển
Nước ta có trên 3.260 km bờ biển và có
nhiều vị trí có thể xây dựng hệ thống cảng biển như: Của ông, Cái Lân, Nghi
Sơn, Hòn La, Vũng Áng, Chân Mây, Dung Quất, Vân Phong, Thị Vải,... Đủ điếu kiện cho hàng trăm triệu tấn hàng hóa
thông quan mỗi năm, đồng thời đảm bảo cho ngành sửa chữa, đóng mới phương tiện
thủy và các ngành dịch vụ biển phát triển cả trong hiện tại và tương lai. Riêng
khu vực từ Vũng Tàu đến Hà Tiên do biển nông, nhiều sình lầy nên ít có khả năng
xây dựng cảng biển lớn, nhưng vẫn có thể xây dựng các cảng có quy mô vừa ở Hòn
Chông, Phú Quốc hoặc cảng sông Cần Thơ.
Về thủy sản
Trong số những lợi ích mà biển mang lại, kinh tế thủy sản
chiếm vị trí đặc biệt quan trọng, đan xen giữa lợi ích trước mắt và lợi
ích lâu dài theo một ý nghĩa đầy đủ của nó. Vì thủy sản là nguồn tài nguyên tái
tạo và kinh tế thủy sản phát triển dựa trên nền tảng của các hệ sinh thái, nên
có thể khẳng đinh “còn biển, còn thủy sản". Đối với một nước đi lên từ xuất
phát điểm thấp của nền kinh tế, còn nghèo nàn và lạc hậu như nước ta, thủy sản
lại càng đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm và cải thiện sinh kế cho
các cộng đồng dân cư sống ở các vùng nông thôn ven biển và hải đảo. Nguồn lợi
thủy sản nước ta vào loại phong phú trong khu vực. Ngoài cá biển là nguồn lợi
chính, còn có nhiều loại đặc sản có giá trị kinh tế cao. Số liệu thống kê cho
thấy, trong vùng biển Việt Nam có khoảng 11.000 loài sinh vật cư trú trong hơn
20 kiểu hệ sinh thái điển hình, thuộc 6 vùng đa dạng sinh học biển khác nhau. Đến
nay đã xác định được 15 bãi cá lớn quan trọng, ngoài ra, còn có các bãi tôm
quan trọng ở vùng biển gần bờ thuộc vịnh Bắc Bộ và biển Tây Nam Bộ. Ven biển có
trên 37 vạn ha mặt nước lợ, thích hợp để nuôi các loại thủy sản xuất khẩu như: cá,
tôm, cua, rong câu,…
Các hệ sinh thái biển - ven biển nước ta có năng suất sinh
học cao và quyết đinh hầu như toàn bộ năng suất sơ cấp của toàn vùng biển. Tiềm
năng nguồn lợi cá biển ước tính khoảng 3,1 - 4,2 triệu tấn, sản lượng khai thác
bền vững khoảng 1,4 - 1,7 triệu tấn. Ngoài ra, trữ lượng nguồn lợi cá rạn san
hô, vùng dốc thềm lục địa, vùng biển sâu > 150m và nguồn lợi nhuyễn thể hai
mảnh vỏ đang được điều tra đánh giá.
Về du lịch biển
Dọc bờ biển và các hải đảo, nhiều nơi có tiềm năng bảo tồn
thiên nhiên, và có hơn 125 bãi biển có thể phát triển du lịch, trong đó có trên
20 bãi biển đạt quy mô và tiêu chuẩn quốc tế như Trà Cổ, Bãi Cháy, Đố Sơn, Sầm
Sơn, Nha Trang, Vũng Tàu, Phú Quốc,... Dọc bờ biển có các di tích lịch sử văn
hóa như cố đô Huế, phố cổ Hội An, Tháp Chàm,... Các bán đảo và các đảo lớn nhỏ
liên kết nhau tạo thành một quần thể du lịch hiếm có trên thế giới như Vinh Hạ
Long. Dọc ven biển hoặc nằm cách biển không xa còn có các trung tâm thương mại,
các thành phố du lịch như Hạ Long, Hải Phòng, Đà Năng, Nha Trang, Vũng Tàu, ...
Về khoáng
sản khác
Các khoáng sản quan trọng và có tiềm
năng lớn ở vùng ven biển là than, sắt, than, cát thủy tinh và các loại vật liệu
xây dựng khác.
- Than đá phân bố dọc biển Hòn Gai - Cẩm
Phả và kéo dài ra các đảo. Trữ lượng than đá ven biển Quảng Ninh khoảng 3 tỷ tấn,
cho phép khai thác hàng chục triệu tấn/năm, tạo ra ngành công nghiệp chủ lực có
tác động lớn đến kinh tế - xã hội vùng ven Biển Đông Bắc của Tổ quốc.
- Than nâu phân bố ở độ sâu từ 300 - 1000m
thuộc đồng bằng sông Hồng và kéo dài ra biển với trữ lượng dự đoán hàng trăm tỷ
tấn. Đây là nguồn năng lượng dự trữ rất lớn của đất nước.
- Than bùn phân bố rải rác dọc ven biển
các tỉnh Thanh Hóa, Quảng Bình, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Đà Năng, Cà Mau,...
Đặc biệt tập trung lớn ở U Minh với trữ lượng lên trên 100 triệu tấn, tuy nhiên
đang bị giảm sút nghiêm trọng.
- Đã phát hiện hàng chục mỏ và điểm quặng
sắt có quy mô khác nhau ở vùng ven biển, trong đó quan trọng nhất là mỏ Thạch
Khê với trữ lượng khoảng 580 triệu tấn, chiếm 65% trữ lượng quặng sắt của cả nước,
hàm lượng quặng sắt đạt 60-65%, đảm bảo nguyên liệu cho cơ sở luyện kim quy mô
lớn.
- Sa khoáng titan phân bố rất phổ biến dọc
bờ biển với trữ lượng dự đoán khoảng 13 triệu tấn, tập trung Ở Bình Ngọc, Sầm
Sơn, Kỳ Anh, Cát Khánh và Hàm Tân. Hầu hết các mỏ titan đều lộ thiên ở những
khu vực kinh tế tương đối phát triển, nguồn lao động dồi dào, giao thông thuận
tiện,…
- Cát thủy tinh là một trong những
khoáng sản ven biển có tiềm năng lớn nhất với trữ lượng dự đoán hàng trăm tỷ tấn.
Các mỏ cát thủy tinh lớn và quan trọng như Vân Hải, Ba Đồn, Nam Ô, Thủy Triều,
Hòn Gốm,... Chất lượng khá tốt được sử dụng làm nguyên liệu để sản xuất các loại
thủy tinh cao cấp và vật liệu khác.
- Muối và các hóa chất biển chủ yếu là
NaCl, là nguồn thực phẩm tối cần thiết trong cuộc sống và là nguyên liệu điều
chế các hóa phẩm công nghiệp khác. Theo đánh giá sơ bộ, tiềm năng diện tích để
phát triển đồng muối vùng ven biển nước ta rất lớn, từ 50-60 nghìn ha, trong đó
khoảng 60% tập trung ở ven biển tử Quảng Ngãi đến Bình Thuận.
- Tài nguyên khác như đá vôi, đá xây dựng,
đá ốp lát, cao lanh, nước khoáng,… Phân bố rộng rãi ở vùng ven biển trên các đảo,
có thể phát triển công nghiệp xi măng và vật liệu xây dựng, và có ý nghĩa rất
quan trọng trong việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế của các địa phương ven biển
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Về nguồn
năng lượng
Nước ta có thể thu được năng lượng từ sóng biển, dòng hải
lưu, thủy triều để làm nguồn năng lượng phục vụ đời sống con người. Tuy nhiên,
muốn khai thác được nguồn năng lượng này cần có vốn và kỹ thuật cao. Nguồn phát
triển năng lượng sức gió, thủy triều và song rất có tiềm năng, nhưng do việc đầu
tư của chúng ta còn hạn chế nên đến nay mới đang ở giai đoạn thử nghiệm và làm
thí điểm.
Về nguồn lực
con người
Vùng ven biển Việt Nam có dân cư tập trung khá đông đúc,
chiếm khoảng 30% tổng dân số của cả nước. Số người trong độ tuổi lao động có
khoảng 10,2 triệu người. Dự báo đến năm 2010 dân số vùng ven biển khoảng gần 27
triệu người, trong đó gần 18 triệu người ở độ tuổi lao động.
Về thực trạng
Trong bối cảnh thế giới tiến mạnh ra biển ở thế kỷ 21 với
các chiến lược biển (và đại dương) của những quốc gia đầy tham vọng thì quy mô
phát triển kinh tế biển nước ta như hiện nay hoàn toàn chưa tương xứng với tiềm
năng và những giá trị mà biển sẽ đem lại cho dân tộc. Cho nên, muốn tiến ra biển
phải chấp nhận đầu tư lớn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phải duy
trì được tinh bền vững về mặt tài nguyên - môi trường.
Theo ước tính, quy mô kinh tế (GDP) biển và vùng ven biển
Việt Nam bình quân đạt khoảng 47-48% GDP cả nước, trong đó GDP của kinh tế thuần
biển đạt khoảng 20-22% tổng GDP cả nước. Trong các ngành kinh tế biển, đóng góp
của các ngành kinh tế diễn ra trên biển chiếm tới 98%, chủ yếu là khai thác dầu
khí, thủy sản, hàng hải (vận tải biển và dịch vụ cảng biển), du lịch biển. Các
ngành kinh tế có liên quan trực tiếp tới khai thác biển như đóng và sửa chữa
tàu biển, chế biến dầu khí, chế biến thủy sản, thông tin liên lạc,.... Bước đầu
phát triển, nhưng hiện tại quy mô còn rất nhỏ bé (chỉ chiếm khoảng 2% kinh tế
biển và 0,4% tổng GDP cả nước). So với các nước , năng lực khai thác biển của
Việt Nam chỉ bằng 1/7 của Hàn Quốc, 1/20 của Trung Quốc, 1/94 của Nhật Bản,
1/260 của thế giới.
Gần đây, kinh tế trên một số đảo đã có bước phát triển nhờ
chinh sách di dân và đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng trên các đảo. Tuy vậy, quy
mô kinh tế biển Việt Nam chỉ đạt khoảng hơn 10 tỷ USD; trong khi sản lượng kinh
tế biển của thế giới ước đạt 1 .300 tỷ USD, Nhật Bản 468 tỷ USD, Hàn Quốc 33 tỷ
USD. Cơ sở hạ tầng các vùng biển, ven biển và hải đảo còn yếu kém, lạc hậu. Hệ
thống cảng biển nhỏ bé, manh mún, thiết bị nhìn chung còn lạc hậu và chưa đồng
bộ nên hiệu quả thấp. Các chỉ tiêu hàng thông qua cảng trên đầu người rất thấp
so với các nước trong khu vực.
Đến nay Việt Nam vẫn chưa có đường bộ cao tốc chạy dọc theo
bờ biển, nối liền các thành phố, khu kinh tế, khu công nghiệp ven biển thành một
hệ thống kinh tế biển liên hoàn. Các sân bay ven biển và trên một số đảo nhỏ,
bé. Các thành phố, thị trấn, khu kinh tế, khu công nghiệp ven biển đang trong
thời kỳ xây dựng. Hệ thống các cơ sở nghiên cứu khoa học - công nghệ biển, đào
tạo nhân lực cho kinh tế biển , các cơ sở quan trắc. dự báo, cảnh báo thời tiết,
thiên tai, các trung tâm tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn còn nhỏ bé, trang bị thô sơ.
Du lịch biển là một tiềm năng kinh doanh lớn. Tuy nhiên,
ngành du lịch biển vẫn thiếu những sản phẩm dịch vụ biển - đảo đặc sắc có tính
cạnh tranh cao so với khu vực và quốc tế và chưa có khu du lịch biển tổng hợp đạt
trình độ quốc tế. Khai thác hải sản và nuôi trồng thủy sản nước lợ vốn là lĩnh
vực kinh tế đặc trưng của biển đã đóng góp khoảng 4,5 tỷ USD trong tổng giá trị
thủy sản xuất khẩu (2008); tạo việc làm cho hơn 1 triệu lao động đánh cá trực
tiếp, nuôi thủy sản và 50 vạn lao động dịch vụ liên quan. Mức khai thác dầu khí
năm 2005 là 18,8 triệu tấn dầu thô và 6,89 tỷ m3 khí, sản phẩm dầu thô gần như
xuất khẩu toàn bộ, kim ngạch xuất khẩu dầu đạt 7,44 tỷ USD, là ngành có đóng
góp lớn nhất cho GDP kinh tế biển hiện nay.
Đối với lĩnh vực kinh tế biển liên quan trực tiếp đến biển
như chế biến sản phẩm dầu khí, chế biến thủy sản, đóng và sửa chữa tàu biển, sản
xuất muối biển công nghiệp, các dịch vụ kinh tế biển và ven biển (như thông
tin, tim kiếm cứu nạn hàng hải, dịch vụ viễn thông công cộng biển trong nước và
quốc tế, nghiên cứu khoa học - công nghệ biển, xuất khẩu thuyền viên,...) hiện
mới bắt đầu được xây dựng và hình thành, quy mô còn nhỏ bé. Các nhà chiến lược
cho rằng, biển là di sản của nhân loại, là nơi dự trữ cuối cùng của loài người
nói chung và của dân tộc ta nói riêng về lương thực, thực phẩm và nguyên, nhiên
liệu. Vì vậy, phải cân nhắc đến tính bền vững trong phát triển các kế hoạch và
chính sách biển mà nguyên tắc chính là phát triển một nền kinh tế sinh thái biển.
Khai thác biển đảo đã đem lại những lợi ích kinh tế - xã hội bước đầu quan trọng,
nhưng việc sử dụng biển và hải đảo chưa hiệu quả, thiếu bền vững. Trình độ khai
thác biển của nước ta đang ở tình trạng lạc hậu nhất trong khu vực. Việt Nam
tuy là một quốc gia biển, song đến nay chúng ta vẫn chưa thực sự dựa vào biển để
phát huy đúng tiềm năng và thế mạnh.
Ngành kinh tế biển khởi sắc nhưng chưa mạnh
Xuất phát từ những tiềm năng, lợi thế của biển đảo và yêu cầu
phát triển kinh tế xã hội, bảo vệ chủ quyền an ninh và môi trường biển, Hội nghị
lần thứ 4 Ban Chấp hành TW Đảng (khóa X) ban hành Nghị quyết về Chiến lược biển
Việt Nam đến năm 2020 với mục tiêu Việt Nam trở thành quốc gia mạnh từ biển,
giàu lên từ biển theo hướng phát triển bền vững, phấn đấu đóng góp khoảng
53-55% tổng GDP; 55-60% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước; giải quyết tốt
các vấn đề xã hội, cải thiện thêm một bước đáng kể đời sống cho nhân dân vùng
biển và ven biển.
Để thực hiện Chiến lược biển Việt Nam, từ năm 2008 Chính phủ
đã ban hành và phê duyệt nhiều nghị quyết và quyết định: một số giải pháp cấp
bách trong quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường biển; đề án đẩy mạnh
công tác tuyên truyền và quản lý bảo vệ và phát triển bền vững biển và hải đảo;
quy hoạch phát triển kinh tế đảo Việt Nam đến năm 2020; … và gần đây, ngày
6/9/2013 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định số 1570/QĐ-TTg phê duyệt
Chiến lược khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên và bảo vệ môi trường biển đến
năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.
Từ khi có nghị quyết của Đảng, quyết định của Chính phủ,
các ngành, các cấp, các doanh nghiệp,… Từ trung ương đến các địa phương đã xây
dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình hành động cho từng lĩnh vực
và ở trên địa bàn của mình bước đầu triển khai có những kết quả đáng khích lệ.
Các đảo lớn như: Côn Đảo, Phú Quốc, Trường
Sa, Phú Quý, Lý Sơn, Cồn Cỏ, Cát Bà, Bạch Long Vĩ, Vân Đồn,… Đã được đầu tư xây
dựng cơ sở hạ tầng, hệ thống giao thông, mạng lưới điện, thông tin liên lạc,
cung cấp nước ngọt, trường học, bệnh xá, bố trí lại dân cư, tham gia vào phát
triển kinh tế, nông nghiệp, du lịch, công nghiệp dầu khí có bước phát triển
nhanh; bảo vệ môi trường biển đảo bước đầu được chú ý, đã có 16 khu bảo tồn biển
và các vườn quốc gia ven biển và hải đảo,… Được thiết lập; đồng thời đảm bảo tốt
công tác quốc phòng an ninh, hình thành hệ thống các khu công nghiệp, các cảng
biển, cảng cá, khu du lịch từ Quảng Ninh cho đến Cà Mau,…
Tính đến nay cả nước đã có 9 cảng biển và 15 khu kinh tế
ven biển được thành lập với tổng diện tích mặt đất và mặt nước lên đến 662.249
ha, thu hút khoảng 700 dự án do nước ngoài và trong nước đầu tư, với tổng số vốn
gần 33 tỷ USD và 330.000 tỷ đồng. Số dân cư sống ở các vùng ven biển tăng lên rất
nhanh, bao gồm hàng triệu người làm nghề vận tải biển, đánh bắt cá, nuôi trồng
thủy sản, dịch vụ đóng sửa tàu thuyền, chế biến thủy sản, dầu khí, sản xuất
công nghiệp, nông nghiệp, du lịch,… Nhiều thị trấn, thị tứ, khu nghỉ dưỡng đã
hình thành dọc theo chiều dài ven biển của đất nước.
Tuy nhiên những kết quả trên mới chỉ là
bước đầu, Chiến lược phát triển kinh tế biển chưa được quán triệt trong cả hệ thống
chính trị, cộng đồng các doanh nghiệp và nông ngư dân. Việc phát triển kinh tế
biển trong thời gian qua chưa quan tâm đầy đủ đến đào tạo nhân lực, chưa lồng
ghép các chương trình phòng ngừa, thích ứng với biến đổi khí hậu và bảo vệ chủ
quyền an ninh biển đảo. Nhiều địa phương, các ngành, các cấp, các doanh nghiệp,
cư dân ven biển còn thờ ơ với tác động của biến đổi khí hậu đến sự phát triển
kinh tế biển bền vững, chưa nhận thức đầy đủ: ngành kinh tế biển là ngành đầu
tiên chịu sự thiệt hại nặng nề do biến đổi khí hậu và nước biển dâng.
Để phát triển
kinh tế biển bền vững, chúng tôi cho rằng cần tập trung vào sáu nhóm giải pháp
sau:
Một
là, nâng cao nhận thức cho toàn xã hội về chiến lược phát triển kinh tế biển
gắn với phòng ngừa, thích ứng với biến đổi khí hậu và bảo vệ chủ quyền biển đảo,
xem đây là ba mặt của một vấn đề có quan hệ mật thiết với nhau. Đồng thời đề
nghị Đảng, Nhà nước chỉ đạo tiến hành sơ kết việc thực hiện Nghị quyết lần thứ
4 (khóa X) và các quyết định của Chính phủ về phát triển kinh tế biển từ năm
2008 đến nay.
Hai là, xây
dựng đề án tái cơ cấu ngành kinh tế biển, các cơ chế, chính sách nhằm phát huy
quyền chủ động của các ngành, các cấp, các địa phương và vùng lãnh thổ, có sự
quản lý, tập trung của trung ương, tạo nên bước đột phá về tăng trưởng kinh tế
và chuyển dịch cơ cấu theo hướng hiện đại, theo chiều rộng và chiều sâu. Bổ
sung và hoàn chỉnh quy hoạch phát triển ngành theo nội dung mới gắn phát triển
kinh tế biển với phòng ngừa thích ứng với biến đổi khí hậu và bảo vệ chủ quyền
biển đảo trên tất cả các lĩnh vực đầu tư cơ sở hạ tầng, xây dựng tuyến đảo, hệ
thống cảng biển, đô thị ven biển, các ngành dầu khí, đóng tàu, giao thông, du lịch,
khai thác nuôi trồng thủy hải sản,… Đồng thời thúc đẩy liên kết hợp tác giữa
các ngành, các địa phương và vùng lãnh thổ, hiện đại hóa các doanh nghiệp, các
hợp tác xã, xây dựng các thương hiệu biển quốc gia, thu hút đầu tư trực tiếp của
nước ngoài và đầu tư tư nhân vào phát triển kinh tế biển,...
Ba là, khẩn
trương xây dựng chiến lược thích ứng cho sinh kế ven biển, bảo vệ môi trường
sinh thái, xác định và tiếp cận cho từng lĩnh vực như: Vận tải biển, đánh bắt
cá, nuôi trồng thủy sản, trồng trọt, chăn nuôi,… Có sự tham gia của đại diện
các cơ quan ở địa phương, các chuyên gia kỹ thuật, các tổ chức quần chúng, các
hộ gia đình, lập bản đồ về các mối hiểm nguy, kế hoạch lưu giữ nước ngọt, áp dụng
cách tiếp cận vùng để quản lý tài nguyên thiên nhiên ven biển dựa trên cộng đồng.
Huy động cộng đồng tham gia vào việc kiên cố hóa đê điều, khôi phục và phát triển
rừng phòng hộ ven biển tạo hành lang bảo vệ đê biển, ngăn ngừa nước biển dâng
và nước mặn lấn sâu vào đồng ruộng. Tổ chức các tổ đoàn kết, hợp tác xã vận tải
trên biển, đánh bắt cá, nuôi trồng thủy hải sản,… Để có điều kiện hỗ trợ nhau
trong sản xuất ứng phó với bão tố, sóng thần,...
Bốn là, tăng cường
đầu tư xây dựng mới và củng cố hệ thống đê biển vững chắc, kiện toàn hệ thống
thông tin truyền thông, hệ thống cảnh báo sớm sóng thần và dự báo thời tiết,
phát triển hệ thống rừng và rừng ngập mặn, trước mắt triển khai sớm hệ thống đê
biển ở vùng thấp và vùng ngập nước. Ưu tiên giải quyết di dời cơ sở hạ tầng,
dân cư ở những vùng có nguy cơ ngập nước, bổ sung lực lượng lao động có chất lượng
cho huyện đảo và quần đảo.
Năm là, khẩn
trương triển khai các đề tài nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực: tuyển chọn,
lai tạo giống cây lương thực, cây công nghiệp, giống nuôi thủy, hải sản,… Đổi mới
cơ cấu nghề nghiệp, phát triển các nghề mới thích ứng với các vùng mặn hóa, hạn
hán, ngập nước; áp dụng công nghệ mới hiện đại vào các lĩnh vực khai thác
khoáng sản, dầu khí, băng cháy, đóng tàu và chế biến các sản phẩm của biển,…
Tăng cường mở rộng hợp tác quốc tế trong các hoạt động nghiên cứu khoa học, đào
tạo và chuyển giao công nghệ, thu hút các nguồn vốn ODA, nguồn vốn đầu tư trực
tiếp của các nước,...
Sáu là, gấp
rút đào tạo và bồi dưỡng cán bộ nghiên cứu quản lý các ngành kinh tế biển và cộng
đồng cư dân ven biển không những có trình độ chuyên môn mà còn có kỹ năng ứng
phó với biến đổi khí hậu và bảo vệ chủ quyền biển đảo, phấn đấu đến năm 2020 tỷ
lệ lao động qua đào tạo đạt trên 80%. Đồng thời đề nghị Chính phủ giao cho các
ngành chức năng đưa nội dung giáo dục về kinh tế biển, biến đổi khí hậu, bảo vệ
chủ quyền biển đảo và chương trình giảng dạy ở các cấp học phổ thông, trung cấp,
cao đẳng, đại học thuộc hệ chính quy về không chính quy.
Trong tương lai gần, ngành kinh tế biển sẽ giữ vai trò chủ
yếu để đảm bảo cho nhu cầu đời sống của nhân dân, đảm bảo cho dân tộc ta giàu mạnh
và phát triển.
0 comments